Trang chủ » Cẩm Nang Học Tập »
Nội dung bài viết
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du: đại thi hào dân tộc, nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học trung đại Việt Nam, có nhiều đóng góp cho văn học dân tộc
– Giới thiệu về Truyện Kiều:được xem là một trong số những kiệt tác của văn học dân tộc Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung
– Giới thiệu về đoạn trích Trao duyên
2. Thân bài phân tích Trao Duyên
a. Mười sáu câu thơ đầu: Thúy Kiều dãi bày lí do, thuyết phục để trao duyên cho Thúy Vân
– Hai câu thơ đầu: cách sử dụng từ ngữ cậy, thưa, lạy diễn tả nỗi lòng chua xót, ngậm ngùi của nàng trước cảnh tình duyên lỡ dở.
– 10 câu tiếp theo: Lời giãi bày đầy tâm trạng của Thúy Kiều thể hiện qua hàng loạt các từ ngữ “giữa đường đứt gánh tương tư”, “sự đâu sóng gió bất kì”, “hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai” và đặc biệt là từ “mặc em”
– 4 câu thơ còn lại: Thúy Kiều đã khôn khéo, tinh tế gửi vào trong đó hoàn cảnh của Thúy Vân
=> Mười sáu câu đầu bài thơ là lời nhờ cậy, giãi bày, thuyết phục của Thúy Kiều với Thúy Vân trước một sự việc hệ trọng mà nàng sắp thực hiện – bán mình chuộc cha và em.
b. Mười bốn câu thơ tiếp theo: Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn dò em
– Trao kỉ vật: “Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền”
=> Những kỉ vật thiêng liêng của Kiều với Kim Trọng.
– Lời dặn dò của Thúy Kiều đối với Thúy Vân:
+ “Duyên này thì giữ vật này của chung”: “duyên này” chính là tình cảm của Thúy Kiều và Kim Trọng còn “của chung” chính là đề cập đến những kỉ vật trước giờ là của Kiều và Kim, còn bây giờ của cả Thúy Vân nữa. Hai tiếng của chung cất lên mới thật đau đớn, xót xa làm sao
+ Lời dặn dò của Thúy Kiều khi nàng nghĩ về tương lai mịt mờ, tăm tối và đầy bất hạnh qua việc sử dụng từ ngữ giả định (mai này, dù có), sử dụng hình ảnh thơ gợi liên tưởng đến cái chết và nhịp thơ chậm rãi não nùng
=> Nỗi đau của Kiều dồn lên đến đỉnh điểm. Qua đó thể hiện tình cảm bền chặt, thủy chung, mãnh liệt của Kiều đối với Kim Trọng.
c. Thúy Kiều trở lại với thực tại đau xót và bày tỏ nỗi niềm, tâm trạng của mình với chàng Kim
– Thúy Kiều ý thức được thực tại của bản thân với biết bao tan vỡ, lỡ dở, nổi trôi của tình duyên và số phận con người, thể hiện qua việc sử dụng thành ngữ các “trâm gãy bình tan”,“hoa trôi lỡ làng”,“phận bạc như vôi”
– Nỗi đau của Thúy Kiều được thể hiện rõ nhất qua hai câu thơ kết thúc bài thơ: cách thay đổi từ ngữ xưng hô không chỉ cho thấy nỗi đau của Thúy Kiều mà còn cho chúng ta thấy tấm lòng thủy chung, tình yêu son sắt mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.
3. Kết bài
– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích: sử dụng hình thức độc thoại và cách sử dụng từ ngữ độc đáo đã thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều.
– Qua đó, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du khi cất lên tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến và tài năng của ông trong việc miêu tả tâm lí nhân vật.
Sau đây là bài văn mẫu phân tích đoạn trích Trao Duyên ( trích Truyện Kiều, Nguyễn Du ). Các em không nên copy bài viết dưới mọi hình thức. Việc tự cảm thụ và làm văn là một cách rất tốt để mở rộng vốn từ và vốn sống của các em, làm cho tâm hồn chúng ta trở lên phong phú và trưởng thành hơn.
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông có nhiều đóng góp xuất sắc cho nền văn học dân tộc với nhiều tác phẩm có giá trị và Truyện Kiều là một trong số những tác phẩm như thế. Truyện Kiều được xem là một trong số những kiệt tác của văn học dân tộc Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung. Và có thể nói, đoạn trích Trao duyên (từ câu 723 đến câu 756) là một trong số những đoạn trích Truyện Kiều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc mọi thế hệ.
2. Thân bài phân tích đoạn trích Trao Duyên
Như chúng ta đã biết, đoạn trích Trao duyên là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân để nhờ Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng để giữ trọn lời thề với chàng Kim.
Mở đầu đoạn trích là lời của Thúy Kiều nhờ em Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Với hai câu thơ cùng cách sử dụng từ ngữ cho thấy Nguyễn Du đã đặt Thúy Kiều ở vai dưới. Lời Thúy Kiều mở đầu bằng chữ “cậy” như một sự phó thác đầy tin tưởng. Đồng thời, tác giả còn sử dụng hàng loạt động từ “lạy”, “thưa” để diễn tả nỗi lòng của Thúy Kiều. Theo lẽ thường, Thúy Kiều là chị thì sẽ không bao giờ phải lạy, thưa em gái mình song ở đây, Thúy Kiều đã chấp nhận làm điều đó, bởi lẽ, Thúy Kiều đang phải nhờ vả em mình và trong hoàn cảnh lúc này của Kiều, có lẽ Thúy Vân là người duy nhất nàng có thể tin tưởng dựa vào để nhờ vả. Hành động ấy của Thúy Kiều đã phần nào diễn tả được nỗi lòng chua xót, ngậm ngùi của nàng trước cảnh tình duyên lỡ dở.
Đồng thời, sau khi mở lời với Thúy Vân, Kiều đã giãi bày nỗi lòng mình với em, đó vừa như những lời tâm sự vừa như lí lẽ trao duyên của Thúy Kiều
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Dường như, đến đây người đọc đã hiểu ra rằng lời nhờ cậy của Kiều trong hai câu đầu là một sự phó thác mà Thúy Vân không thể từ chối được. Điều đó cũng đúng thôi, bởi lẽ chuyện tình của Thúy Kiều và Kim Trọng đang ở độ đương thì, ngọt ngào viên mãn, ấy vậy mà bỗng chốc “đứt gánh tương tư” thì thử hỏi làm sao Kiều không chua xót cho được. Và bởi vậy, Thúy Kiều chỉ có thể trông chờ Thúy Vân “chắp mối tơ thừa”. Hai tiếng “mặc em” cất lên như một sự phó thác đầy thiết tha, khẩn cầu của Kiều. Để rồi, cứ thể, Kiều mở lòng mình, kể với em về chuyện tình với chàng Kim:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Với hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” Thúy Kiều muốn khẳng định tình cảm gắn bó, sâu nặng giữa nàng và Kim Trọng. Đồng thời, qua đó càng thể hiện nỗi đau của Thúy Kiều khi phải trao duyên cho em. Trao duyên cho Thúy Vân là điều Thúy Kiều chưa từng nghĩ tới, hơn ai hết, nàng biết đấy là tình thế khó xử đối với cả nàng và em, nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy “sóng gió bất kì”, nàng phải đứng giữa sự lựa chọn đầy khó khăn giữa tình và hiếu và cuối cùng, nàng phải hi sinh tình yêu của bản thân mình, để hoàn thành chữ hiếu, bán mình chuộc cha. Bởi vậy, nàng không còn có sự lựa chọn nào khác ngoài việc nhờ em nối duyên với Kim Trọng.
Thêm vào đó, để tăng thêm sức thuyết phục trong lời nhờ cậy của mình, Thúy Kiều đã khôn khéo, tinh tế gửi vào trong đó hoàn cảnh của Thúy Vân:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến tuổi xuân của Vân còn dài, còn nhiều hi vọng ở phía trước. Để rồi từ đó, viện dẫn tới tình chị em “tình máu mủ” và cái họa khi bán mình chuộc cha của mình “thịt nát xương tan”, “ngậm cười chín suối” Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào thế không thể từ chối. Tất cả những điều đó đã thể hiện được sự sắc sảo, tinh tế và khôn khéo trong con người Thúy Kiều.
Như vậy, mười sáu câu đầu bài thơ là lời nhờ cậy, giãi bày, thuyết phục của Thúy Kiều với Thúy Vân trước một sự việc hệ trọng mà nàng sắp thực hiện – bán mình chuộc cha và em. Để rồi, trong mười bốn câu thơ tiếp theo, Thúy Kiều đã trao kỉ vật tình yêu và dặn dò Thúy Vân
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Có thể nói, chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền là những kỉ vật thiêng liêng, là minh chứng chứng giám cho tình yêu son sắt của Thúy Kiều và Kim Trọng. Ấy vậy mà giờ đây, Thúy Kiều phải trao lại cho em. Thử hỏi làm sao nàng không đau đớn, không xót xa cho được? Hành động trao kỉ vật của Thúy Kiều đau xót là thế nhưng chắc hẳn chúng ta sẽ càng xót xa hơn trước những lời mà Kiều dặn dò em – “Duyên này thì giữ vật này của chung” hay “Mất người còn chút của tin”. Có thể dễ dàng nhận ra, “duyên này” chính là tình cảm của Thúy Kiều và Kim Trọng còn “của chung” chính là đề cập đến những kỉ vật trước giờ là của Kiều và Kim, còn bây giờ của cả Thúy Vân nữa. Hai tiếng của chung cất lên mới thật đau đớn, xót xa làm sao. Dường như, câu thơ còn giấu trong nhịp điệu của nó một nỗi đau sâu kín của nàng Kiều. Và có lẽ, càng xót xa hơn trước lời Thúy Kiều dặn Thúy Vân khi nàng nghĩ về tương lai mịt mờ, bất hạnh của mình ở phía trước
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Sử dụng các từ ngữ giả định “mai sau”, “dù có” cùng với việc sử dụng các hình ảnh thuộc về cõi chết “nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”, “hồn”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” Thúy Kiều đã nghĩ tới tương lai bất hạnh của mình nơi cõi âm đầy ma mị. Thêm vào đó, nhịp thơ chậm rãi, thiết tha, não nùng làm cho lời thơ như tiếng khóc não nùng, có nén lại để không bật lên thành lời. Tất cả những điều đó đã góp phần diễn tả nỗi đau tột cùng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật cho Thúy Vân. Đồng thời, qua đó, giúp chúng ta cảm nhận được tình cảm thủy chung, sâu nặng của Thúy Kiều và Kim Trọng.
Từ mộng mị của tương lai mờ mịt, Thúy Kiều trở lại với thực tại đau xót và bày tỏ nỗi niềm, tâm trạng của mình với chàng Kim qua những vần thơ da diết
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Những vần thơ trên chính là lời độc thoại của Thúy Kiều với chính mình. Hơn ai hết, Thúy Kiều ý thức được thực tại của bản thân với biết bao tan vỡ, lỡ dở, nổi trôi của tình duyên và số phận con người. Tất cả những điều đó được thể hiện rõ nét qua việc sử dụng hàng loạt các thành ngữ “trâm gãy bình tan”,“hoa trôi lỡ làng”,“phận bạc như vôi”. Dường như, tất cả nỗi đau của Thúy Kiều dồn nén từ đầu đoạn trích đã lên đến đỉnh điểm khi nàng cất lên tiếng gọi xé lòng:
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Ở đây, cách gọi Thúy Kiều dành cho Kim Trọng đã có sự thay đổi. Thúy Kiều không đơn thuần gọi Kim Trọng bằng tên mà thay vào đó gọi là “lang”, điều đó có nghĩa là với Thúy Kiều, Kim TRọng không còn đơn thuần chỉ là người yêu mà tận sâu trong trái tim nàng, nàng và Kim Trọng đã nên duyên mà dù sống hay chết, điều đó cùng không thể thay đổi. Lời thơ vừa thể hiện nỗi đau xé ruột của Thúy Kiều nhưng qua đó cũng giúp chúng ta nhận thấy sự son sắt, chung thủy trong tình yêu mà Kiều dành cho chàng Kim.
3. Kết bài
Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng hình thức độc thoại và cách sử dụng từ ngữ độc đáo đã thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều. Đồng thời, qua đó, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du khi cất lên tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến và tài năng của ông trong việc miêu tả tâm lí nhân vật.
>> Các em tham khảo thêm nhiều bài VĂN MẪU tại đây nhé : Cẩm Nang Học Tập
Cảm ơn các em đã đọc và tìm hiểu về bài viết “Phân tích đoạn trích trao duyên” mà trung tâm vừa mới hoàn thành. Hi vọng bài viết sẽ giúp ích cho các em thật nhiều trong quá trình học tập song các em không nên sao chép nội dung vào các bài viết của mình. Nếu thấy bài viết hay và độc đáo, các em hãy like và share nhé!
Từ khóa tìm kiếm nhiều :
mở bài trao duyên
phân tích trao duyên
phân tích bài trao duyên
phân tích đoạn trích trao duyên
bài văn phân tích trao duyên
lập dàn ý bài trao duyên
Tư vấn gia sư (24/7) 097.948.1988
Các tin liên quan
Phụ huynh quan tâm