Trang chủ » Cẩm Nang Học Tập »
Nội dung bài viết
– Giới thiệu khái quát về nhà văn Kim Lân (những đặc điểm cơ bản về con người, cuộc đời, các sáng tác chính, đặc điểm sáng tác,…)
– Giới thiệu khái quát về truyện ngắn Vợ nhặt (xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,…)
– Nêu vấn đề nghị luận: nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt
a. Ngoại hình và hoàn cảnh sống của bà cụ Tứ
– Ngoại hình: dáng người lọng khọng với tiếng “húng hắng ho”, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”
– Hoàn cảnh sống: là người dân của xóm ngụ cư, sống cùng nhau trong một căn nhà tối tàn, “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”
=> Điều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về bà cụ Tứ không phải ở ngoại hình nhân vật, ở hoàn cảnh sống mà ở chính những diễn biến tâm trạng, những cung bậc cảm xúc của bà
b. Những yếu tố ngoại cảnh tác động đến diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ
– Giữa cái bối cảnh thê lương, u ám, tối tăm đầy khủng khiếp của nạn đói năm 1945, Tràng – một người dân xóm ngụ cư xấu xí lại được một người phụ nữ theo không về làm vợ.
– Chiều hôm ấy, khi bà cụ Tứ về đến nhà thì bống thấy người đàn bà lạ xuất hiện trong ngôi nhà của mình và Tràng – con trai bà giới thiệu rằng thị là vợ Tràng, là con dâu của bà.
=> Sự kiện này là yếu tố ngoại cảnh tác động và làm nảy sinh những diễn biến tâm lí, những cung bậc cảm xúc phức tạp của bà cụ Tứ.
c. Phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ
– Đầu tiên đó chính là sự ngạc nhiên, “quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”
+ Thể hiện qua hàng loạt câu hỏi liên tiếp của bà cụ Tứ trong một đoạn văn rất ngắn
+ Những câu hỏi ấy của bà cụ Tứ không phải để kiếm tìm một câu trả lời mà hơn hết nó dùng để thể hiện sự ngạc nhiên đến tột cùng của bà cụ Tứ.
+ Sự ngạc nhiên ấy của bà không phải vì bà thực sự không hiểu chuyện gì đang xảy ra mà bởi tất cả mọi thứ đến quá nhanh, quá đột ngột, việc Tràng có vợ đối với bà là một điều xa vời với bà nên khiến bà không thể tin nổi đấy là sự thật.
– Từ sự ngạc nhiên, “tỏ ý không hiểu ấy” bà cụ Tứ dần hiểu và “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự”
+ Lòng người mẹ ấy “vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con trai mình”: câu văn được bỏ lửng giữa chừng nhưng đã mở ra trong lòng người đọc biết bao nỗi niềm, bao cơ sự, bao nỗi ngổn ngang, rối bời trong lòng người mẹ ấy
+ Bà khóc: giọt nước mắt của lòng thương con, lo lắng cho con và cả sự tủi thân vì bà không làm trong trách nhiệm, bổn phận của một người mẹ nhưng đồng thời, đó còn là giọt nước mắt, là tiếng khóc của niềm vui, của sự hạnh phúc khi con trai bà đã có vợ
– Bà cụ Tứ mở lòng, vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới với tấm lòng yêu thương, cảm thông:
+ Bà nói với “nàng dâu mới” bằng cái giọng nhẹ nhàng
+ Bà cụ Tứ không chọn điểm nhìn của người mẹ chồng dành cho nàng dâu mà bà lựa chọn điểm nhìn của những con người cùng chung cảnh ngộ, cùng chung số phận để thấu hiểu, để cảm thông. Điều đó đã cho thấy, bà cụ Tứ không chỉ là người yêu thương con mà bà còn có tình người, lòng yêu thương với những người nghèo khổ.
– Tâm trạng bà cụ Tứ đã có nhiều thay đổi, vui vẻ và rạng rỡ hơn trong buổi sáng hôm sau:
+ Cảm thấy nhẹ nhõm và tươi tỉnh hơn.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, chỉ có “độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo” nhưng dường như cả nhà đều ăn rất ngon lành và vui vẻ
+ Trong bữa cơm sớm, “bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”: bà cụ Tứ đã gieo vào lòng con lòng lạc quan, yêu đời, khát khao sống và niềm tin về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
d. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân
– Tâm lí nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân miêu tả một cách hợp lí, phù hợp với logic phát triển tâm lí của nhân vật
– Từ tâm lí nhân vật bà cụ Tứ chứng tỏ Kim Lân rất am hiểu về tâm lí nhân vật, dường như, ông đã nhập mình vào nhân vật để nói hộ những sắc thái tình cảm, những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.
Khái quát về nhân vật bà cụ Tứ và cảm nghĩ của bản thân về nhân vật.
Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi
Xin từ điển hãy thêm từ “vợ nhặt’
Ngòi bút Kim Lân tưởng như đùa như khóc
Đói quắt quay nhưng tha thiết con người.
Chỉ với bốn câu thơ thôi nhưng cũng đủ để gợi lên trong chúng ta thật nhiều suy nghĩ về truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân – cây bút chuyên hướng ngòi bút truyện ngắn của mình về cuộc sống và người dân quê. Và để rồi, khi đọc truyện ngắn “Vợ nhặt”, người đọc sẽ đồng cảm với số phận, cảnh ngộ và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trong nạn đói năm 1945 và một trong số đó chính là nhân vật bà cụ Tứ.
Chắc hẳn, khi đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” điều đầu tiên khiến người đọc tiếp xúc với bà cụ Tứ đó chính là ở dáng người lọng khọng với tiếng “húng hắng ho”, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Bà sống cùng người con trai là người dân của xóm ngụ cư, sống cùng nhau trong một căn nhà tối tàn, “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Nhưng có lẽ, điều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về bà cụ Tứ không phải ở ngoại hình nhân vật, ở hoàn cảnh sống của bà mà ở chính những diễn biến tâm trạng, những cung bậc cảm xúc của bà.
Chắc hẳn, những ai đã đọc truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân sẽ không thể nào quên được bối cảnh khủng khiếp của nạn đói năm 1945 – người chết nằm ngổn ngang khắp lều chợ, không khí vẩn lên mùi ẩm thối, âm thanh của tiếng quạ kêu, của tiếng người khóc hờ trong đêm và hình ảnh của những người sống dắt díu nhau , xanh xám, trông như những bóng ma. Ấy vậy mà, giữa cái bối cảnh thê lương, u ám, tối tăm ấy, Tràng – một người dân xóm ngụ cư xấu xí lại nhặt được vợ. Và buổi chiều hôm ấy, khi bà cụ Tứ về đến nhà thì bỗng thấy người đàn bà lạ xuất hiện trong ngôi nhà của mình và Tràng – con trai bà giới thiệu rằng thị là vợ Tràng, là con dâu của bà. Chính sự kiện này là yếu tố ngoại cảnh tác động và làm nảy sinh những diễn biến tâm lí, những cung bậc cảm xúc phức tạp của bà cụ Tứ.
Đầu tiên đó chính là sự ngạc nhiên, “quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”. Có lẽ, sự ngạc nhiên đã được thể hiện một cách chân thực và rõ nét qua hàng loạt câu hỏi liên tiếp của bà cụ Tứ trong một đoạn văn rất ngắn “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?…Ai thế nhỉ?” Những câu hỏi ấy của bà cụ Tứ không phải để kiếm tìm một câu trả lời mà hơn hết nó dùng để thể hiện sự ngạc nhiên đến tột cùng của bà cụ Tứ. Sự ngạc nhiên ấy của bà không phải vì bà thực sự không hiểu chuyện gì đang xảy ra mà bởi tất cả mọi thứ đến quá nhanh, quá đột ngột, việc Tràng có vợ đối với bà là một điều xa vời với bà nên khiến bà không thể tin nổi đấy là sự thật.
Từ sự ngạc nhiên, “tỏ ý không hiểu ấy” bà cụ Tứ dần hiểu và “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự”. Lòng người mẹ ấy “vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con trai mình”. Nỗi lòng người mẹ ấy thật đáng thương biết bao “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên, làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt mày sau này. Còn mình thì…” Một câu văn được bỏ lửng giữa chừng nhưng đã mở ra trong lòng người đọc biết bao nỗi niềm, bao cơ sự, bao nỗi ngổn ngang, rối bời trong lòng người mẹ ấy. Có lẽ, bà đang tự trách chính bản thân mình vì đã không lo nổi cho con có cuộc sống như bao người. Và rồi, bà khóc “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cái cơn đói khát này không.” Những giọt nước mắt trên gương mặt khắc khổ ấy của bà cụ Tứ là giọt nước mắt của lòng thương con, lo lắng cho con và cả sự tủi thân vì bà không làm trong trách nhiệm, bổn phận của một người mẹ nhưng đồng thời, đó còn là giọt nước mắt, là tiếng khóc của niềm vui, của sự hạnh phúc khi con trai bà đã có vợ.
Đồng thời, đằng sau giọt nước mắt của cả niềm vui và nỗi buồn trộn lẫn vào nhau ấy, bà cụ Tứ mở lòng, vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới với tấm lòng yêu thương, cảm thông. Bà nói với “nàng dâu mới” bằng cái giọng nhẹ nhàng “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…” Với bà cụ Tứ, cuộc hôn nhân của Tràng và thị cũng đẹp đẽ, cũng đáng trân trọng như những cuộc hôn nhân khác bởi lẽ cuộc hôn nhân nào cũng bắt nguồn từ cái duyên, cái phận với nhau. Dường như, ở đây, bà cụ Tứ không chọn điểm nhìn của người mẹ chồng dành cho nàng dâu mà bà lựa chọn điểm nhìn của những con người cùng chung cảnh ngộ, cùng chung số phận để thấu hiểu, để cảm thông. Chính những điều đó đã cho chúng ta thấy, bà cụ Tứ không chỉ là người yêu thương con, luôn dành cho con tình yêu thương vô bờ bến mà bà còn có tình người, lòng yêu thương với những người nghèo khổ.
Đặc biệt, tâm trạng bà cụ Tứ đã có nhiều thay đổi, vui vẻ và rạng rỡ hơn trong buổi sáng hôm sau – “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Giờ đây, niềm hạnh phúc, vui sướng và phấn khởi của bà cụ Tứ đã hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ, u ám, buồn bã thường ngày của bà. Đặc biệt, niềm vui sướng, hạnh phúc ấy của bà còn được thể hiện rõ nét trong bữa cơm sớm. Mặc dù, bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, chỉ có “độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo” nhưng dường như cả nhà đều ăn rất ngon lành và vui vẻ. Thêm vào đó, trong bữa cơm sớm, “bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”. Tất cả những điều đấy phải chăng đều xuất phát từ niềm vui, niềm hạnh phúc không xiết ở trong bà và bà cụ Tứ đã gieo vào lòng con lòng lạc quan, yêu đời, khát khao sống và niềm tin về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Có thể nói, tâm lí nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân miêu tả một cách hợp lí, phù hợp với logic phát triển tâm lí của nhân vật: từ ngạc nhiên, không hiểu tới hiểu và hiểu ra bao cơ sự. Đồng thời, từ tâm lí nhân vật bà cụ Tứ chứng tỏ Kim Lân là nhà văn rất am hiểu về tâm lí nhân vật, dường như, ông đã nhập mình vào nhân vật để cảm nhận và nói hộ những sắc thái tình cảm, những diễn biến tâm lí phức tạp và đầy suy tư, trăn trở trong sâu thẳm lòng mình của nhân vật.
Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ đã được nhà văn Kim Lân xây dựng thành công. Nhân vật bà cụ Tứ đã góp phần thể hiện chiều sâu nhân đạo sâu sắc của tác phẩm, đó chính là sự phát hiện và trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nông dân nghèo khổ nhưng giàu lòng thương con, giàu tình thương người, giàu đức hi sinh và sự vị tha trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời, nhân vật bà cụ Tứ đã in đậm dấu ấn nhân vật trong sáng tác của nhà văn Kim Lân – nhân vật của ông dù sống trong hoàn cảnh túng khó, nghèo khổ vẫn luôn lạc quan, yêu đời và tin vào một ngày mai tươi sáng.
Trên đây là bài viết “Phân tích tâm lí nhân vật bà cụ Tứ” mà trung tâm vừa mới hoàn thành. Trung tâm hi vọng bài viết sẽ giúp ích cho các em trong quá trình học tập và ôn luyện, song các em không nên sao chép bài viết vào các bài làm của mình. Nếu thấy bài viết hay, các em nhớ like và share nhé. Cảm ơn tất cả các em!
Từ khóa tìm kiếm nhiều :
phân tích nhân vật bà cụ tứ
phân tích bà cụ tứ
phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ tứ
phân tích tâm trạng bà cụ tứ
dàn bài vợ nhặt
dàn ý phân tích bà cụ tứ
Tư vấn gia sư (24/7) 097.948.1988
Các tin liên quan
Phụ huynh quan tâm